Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

ĐẠI CƯƠNG VỀ VĂN HÓA HUYỀN BÍ
Văn hóa huyền bí cũng là một phần của đời sống. Nhiều bạn trẻ muốn tìm hiểu, vận dụng nhưng chưa có tài liệu hệ thống hóa nên hay bị nhầm lẫn. Văn hóa huyền bí là để chỉ những việc thuộc hoạt động tâm linh như thờ cúng thần phật, tổ tiên, cầu nguyện, xem số Tử vi, Hà lạc, xem ngày giờ tốt xấu, bói toán, phong thủy v.v… Viết bài này tôi muốn giúp các bạn trẻ có cái nhìn toàn diện, hệ thống hóa để khỏi nhầm lẫn giữa các lĩnh vực.
Tôi quan tâm đến văn hóa huyền bí từ lúc còn trẻ nhưng không có điều kiện học hỏi. Lần đầu tiên vào Sài gòn tháng 12 năm 1975 tôi thu thập được khá nhiều sách. Tuy thế, lúc ngoài 50 tuổi tôi mới có dịp theo học một số môn Huyền bí Phương Đông, học với các thầy và tự học. Mặc dầu đã có cố gắng nhưng kiến thức đạt được vẫn rất hạn chế, đặc biệt là chỉ nắm được một số phần lý thuyết mà còn yếu kém về thực hành. Tuy vậy nhờ vào khả năng nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm sư phạm mà tôi đã hệ thống hóa các kiến thức, sắp xếp các môn có đối tượng, nội dung khác nhau hoặc gần nhau để làm cho việc nhận thức được rõ ràng, tránh nhầm lẫn. Điều này là cần thiết, là có ích đối với các bạn trẻ mới bắt đầu tìm hiểu các môn huyền bí.
Tôi kính xin các bậc cao minh, các vị thức giả, các bạn có trình độ, nếu phát hiện được những sai lầm hoặc thiếu sót thì chỉ bảo cho tôi biết để sửa chữa.
Bài hơi dài, sẽ đăng làm nhiều kỳ.
I-CẤU TẠO CỦA VŨ TRỤ VÀ CON NGƯỜI
Vũ trụ cũng như con người là một thể thống nhất, việc chia ra các phần, các mặt chỉ là để đơn giản hóa việc nhận thức. Có một số cách phân chia. Về đặc tính, chia ra 2 mặt là ÂM và DƯƠNG. Về bản thể, chia ra 2 phần là VẬT CHẤT và TÂM LINH. ( cách chia này khác với cách chia Vật chất và Ý thức trong triết học Mác xit với Ý thức là phần hoạt động của não bộ. Tâm linh rộng hơn, cao hơn Ý thức ).
Cấu tạo vật chất của Vũ trụ gồm các vật thể, hành tinh, ngôi sao tạo nên các thiên hà. Phần tâm linh của vũ trụ bao gồm năng lượng và thông tin chứa trong toàn bộ, chủ yếu trong các khoảng không. Nhân dân và các tôn giáo hình tượng hóa phần tâm linh của vũ trụ thành Ông Trời, Thượng Đế v.v…
Cấu tạo vật chất của con người là phần thân thể. Trong phần này có 2 loại hoạt động( HĐ). HĐ ý thức trực tiếp liên quan tới não bộ. HĐ vô thức độc lập với não, đó là công việc tự động của nội tạng (tim, phổi, dạ dày, ruột, bàng quang, gan, thận…), của các hệ thần kinh, tuần hoàn, bài tiết. HĐ ý thức liên quan đến sự thành bại của con người, HĐ vô thức liên quan đến sinh mệnh ( bệnh tật, sống chết). Có một số HĐ vừa thuộc ý thức và vô thức ( hô hấp, bài tiết..), trong đó hô hấp đóng vai trò liên kết giữa HĐ ý thức và HĐ vô thức.
Phần tâm linh của con người gồm năng lượng và thông tin chứa trong các tầng hào quang. Đó là các tầng bao bọc cơ thể con người. Các tầng này là vô hình. Một số người có khả năng đặc biệt nói rằng họ có thể nhìn thấy 7 tầng hào quang ( Tầng 1 sát với mặt ngoài của da, dầy vài cm, tầng 7 cách mặt da chừng nửa mét ). Hình vẽ các tầng hào quang được đăng trong quyển sách “ Bàn tay ánh sáng”- Hands of Light - của tác giả người Mỹ, bà An Brennan Barbara, Lê Trọng Bổng dịch, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.( GS Nguyễn Hoàng Phương, GS Nguyễn Đình Phư và tôi có chép lại trong một số sách). Một số tín ngưỡng cho rằng con người có 3 hồn 7 vía, phải chăng 7 tầng hào quang tương đương với 7 vía đó. Đoán rằng các tầng hào quang được cấu tạo bằng những hạt vô cùng mịn mà khoa học hiện tại chưa phát hiện ra, vì thế hiện nay chưa có thiết bị khoa học nào ghi nhận được một cách chắc chắn.
Những vấn đề thuộc Tâm linh như Năng lượng vũ trụ, Sóng tâm linh, Siêu ý thức, Linh tính, Ngoại cảm v.v…đang ngày càng được nhiều người quan tâm.
II-MONG ƯỚC CỦA CON NGƯỜI
Một trong những mong ước của con người là nhận thức được, cải thiện được thế giới và cuộc sống để hạnh phúc hơn. Để làm việc này có 2 phương tiện chính là KHOA HỌC và TÂM LINH, đi theo 2 đường, dùng 2 phương pháp khác nhau.
Khoa học nhằm tác động vào thế giới vật chất và ý thức, từ đó mà tìm ra các phát minh, sáng chế để đưa vào đời sống. HĐ khoa học dựa vào các cơ sở có nguồn gốc rõ ràng ( luận cứ), được chứng minh chặt chẽ (luận chứng), được hệ thống hóa, được kiểm nghiệm chắc chắn. HĐ khoa học có tính thống nhất trên toàn thế giới ( bài này không bàn đến).
Tâm linh là hoạt động chủ yếu của các tôn giáo dựa trên Đức tin và một số môn, được tạm gọi là “ Huyền bí” ( Để có vẻ gắn với khoa học người ta gọi các môn đó thuộc Khoa học huyền bí), ví dụ Tử vi, Bói Dịch, Phong thủy…. HĐ tâm linh không có được sự thống nhất toàn thế giới mà nó được phân chia ra nhiều trường phái tùy theo vùng địa lý, lịch sử, truyền thống. Thí dụ Đức tin của các tôn giáo là khác nhau, khoa Chiêm tinh, khoa Tử vi của Tây Âu và Đông Á khác nhau. Một số môn huyền bí của Châu Âu, Châu Mỹ, A Rập, Ấn độ , Trung hoa cũng khác nhau.
Phần Văn hóa Tâm linh được trình bày sau đây là của Việt Nam, một phần tiếp thu từ văn hóa Trung hoa trong hàng ngàn năm lịch sử.
Xin tạm để riêng vấn đề Tôn giáo . Dưới đây chủ yếu trình bày các môn huyền bí có trong xã hội hiện nay.
III-PHÂN LOẠI CÁC MÔN HUYỀN BÍ
Sách viết về các môn huyền bí có rất nhiều, thật giả lẫn lộn, nếu không có trình độ rất dễ bị nhầm lẫn. Những người hành nghề dựa vào các môn này cũng rất đa dạng, có nhiều thầy giỏi thực sự nhưng cũng có không ít những kẻ bịp bợm, lừa đảo.
Mục tiêu của tất cả các môn là tìm cách giúp người ta tránh điều xấu, đạt điều tốt hoặc để thỏa mãn nhu cầu muốn biết về vấn đề nào đó.
Đặc điểm của các môn huyền bí là ở nguồn gốc. Hầu hết các nguyên tắc cơ bản, các công thức cơ bản không rõ xuất xứ, không được chứng minh ( theo con đường khoa học), không thể trả lời câu hỏi Tại sao mà chỉ trả lới câu hỏi Như thế nào.
Dựa vào mục tiêu của từng môn, tôi xếp các môn vào trong 5 lĩnh vực : Dự đoán; Phong thủy; Xem ngày giờ, Cầu cúng, Tu luyện.
3.1- DỰ ĐOÁN
3.1.1-Đại cương
Đó là đoán các việc, sự vật đã xẩy ra, đang tồn tại , và quan trọng hơn là sắp xẩy ra. [ Trong khoa học đó là lĩnh vực Dự báo ( kinh tế, chính trị, thiên tai, biến đổi khí hậu, thời tiết v.v…), là giả thuyết nghiên cứu…]. Dự đoán có rất nhiều môn, muôn hình ngàn vẻ. Mỗi môn gồm 3 bộ phận : Mục tiêu, Chứng cứ, Phương pháp.
Mục tiêu của dự đoán là những điều người ta muốn biết mà chưa có cách gì biết được. Nó bao gồm những điều từ rất rộng ( như vận mệnh của nhân loại, của quốc gia, dân tộc, thiên tai, thời tiết của một vùng hoặc toàn cầu …) những việc bình thường ( như sức khỏe, công việc, học hành, hôn nhân… ) đến việc rất bé (như đi họp có bị trể không, bữa ăn tối có bị chậm giờ không v.v….).
Chứng cứ có 2 loại. Chứng cứ thực tiễn do người ta thu thập, quan sát được trong thời gian dự đoán hoặc các vật chứng được cung cấp. Chứng cứ lý thuyết, đó là các môn cơ sở như học thuyết ÂM DƯƠNG, lý luận NGŨ HÀNH ( kim, thủy, mộc, hỏa, thổ), CAN, CHI ( 10 can : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ Canh, Tân, Nhâm, Quý. 12 chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi); BÁT QUÁI ( Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn ), KINH DỊCH, ngoài ra còn có tác dụng của các sao, các thần.
Phương pháp dự đoán phụ thuộc vào từng môn. Một số môn dựa vào việc xét xung hay hợp, sinh hay khắc của can chi, ngũ hành, bát quái ( tìm ra từ đối tượng, từ chứng cứ thực tiễn ) để đoán. Một số môn khác dựa vào chứng cứ thực tiễn rồi dùng các lời, các bài bản đã có sẵn để suy diễn. Một số khác người dự đoán dựa vào chứng cứ và năng lực của mình để đưa ra những thông tin do họ cảm nhận.
Để dự đoán người ta có thể nhờ cậy các chuyên gia hoặc tự bản thân mình làm lấy khi đã học được và tinh thông phương pháp.
Dựa vào 3 tiêu chí đã nêu trên đây, phân chia dự đoán thành các môn : Độn, Số, Bói., Cảm xạ, Ngoại cảm, Chiêm tinh. Xem Tướng.
3.1.2-Các môn ĐỘN ( độn toán)
Độn là môn dự đoán rất cao, rất khó, phải là người có năng khiếu đặc biệt mới học và hành được. Có 3 môn chủ yếu : Thái Ất, Độn Giáp, Lục Nhâm ( Giáp, Ất, Nhâm là 3 trong 10 Can ). Đó là 3 môn thuộc Tam Thức, trong đó Thái Ất thuộc về Thiên, Độn Giáp thuộc về Địa, Lục Nhâm thuộc về Nhân. Thiên, Địa, Nhân ( Trời, Đất, Người) là 3 bản thể chính của vũ trụ, gọi là Tam Tài.
3.1.3- Các môn SỐ
Số dùng để đoán vận mệnh của một người. Xem số dựa vào thời điểm sinh ra tự nhiên của người đó ( giờ, ngày, tháng, năm). Chú ý, phải là ngày giờ sinh tự nhiên chứ khi đã có can thiệp của con người bằng phẩu thuật ( mổ đẻ) thì không còn chính xác. Xem số có 3 môn : Tử vi, Hà lạc, Tứ trụ. Cách làm là từ ngày , giờ, năm, tháng, lập ra lá số, dựa vào nó để đoán. Cách lập lá số và phương pháp đoán của các môn là khá khác nhau.
3.1.4-Các môn BÓI
Bói là môn phổ biến nhất, có rất nhiều loại hình . Bói là việc dựa vào một hoặc vài chứng cứ thực tiễn rồi dùng những nguyên tắc, công thức để suy đoán. Tùy vào loại hình mà cách dùng chứng cứ và nguyên tắc khác nhau. Thí dụ bói dịch phải lập Quẻ Dịch, bói bài Tây ( Tú lơ khơ) phải nhặt và xếp 1 số quân bài v.v…Có khi chứng cứ chỉ là một ngọn lá, một nhúm đất, một câu thỉnh nguyện, một câu Kiều v.v... Để một quẻ bói đạt được kết quả đáng tin cậy cần có 2 điều quan trọng. Với người đi bói cần có LÒNG THÀNH, đó là sự suy nghĩ kỹ càng, thấu đáo trong ý thức, là trung thực trong việc cung cấp chứng cứ, là lòng thật tâm mong mỏi được biết kết quả. Với người bói , đó là sự sự nắm vững, sự thông thạo phương pháp kết hợp với sự thông cảm, sự chia sẻ với người đi bói.
3.1.5-Cảm xạ
Càm là cảm nhận, tiếp nhận; Xạ có nghĩa như từ này trong khúc xạ, phản xạ, nhiễu xạ, chiếu xạ, ở đây xạ mang ý nghĩa sóng tâm linh. Môn này dựa trên khả năng to lớn của các tầng hào quang về thu nhận và xử lý thông tin dạng sóng tâm linh, rồi đưa các thông tin ấy mã hóa thành các biểu tượng mà mắt có thể tiếp nhận để truyền về cho não. Công cụ chủ yếu của nhà cảm xạ là con lắc, nó có thể đứng yên, quay thuận hoặc ngược chiều kim đồng hồ, lắc theo một phương . Đó là cách trả lời của con lắc khi nhà cảm xạ đặt câu hỏi sau khi đã tạo điều kiện thu nhận sóng tâm linh từ đối tượng khảo sát. ( Hiện nay ngoài môn cảm xạ dự đoán còn lưu truyền môn luyện tập theo cảm xạ để tăng cường sức khỏe và chữa bệnh, đó là cảm xạ khác)
3.1.6-Ngoại cảm
Đó là khả năng của những người đặc biệt, cao nhất là những nhà tiên tri và những người có được Thiên lý nhĩ, Thiên lý nhãn. Khả năng ngoại cảm có thể đến từ 3 nguồn : + Do Trời phú, sinh ra đã có khă năng này trong tiềm ẩn, càng ngay càng lộ ra. + Do bị một tai nạn rất nặng, đã bị chết lâm sàng, nhưng rồi nhờ năng lượng tâm linh mà sống lại được. + Nhờ tu luyện lâu ngày theo một môn phái tâm linh.
3.1.7-Chiêm tinh
Đó là môn xem Thiên văn để biết vận mệnh con người và đất nước. Ở Việt Nam môn Chiêm tinh chỉ mới được nghe nói đến trong một vài câu chuyện chứ tôi chưa biết đã có ai học được và truyền bá. Người ta tin rằng mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh, mỗi đất nước tương ứng với một vùng trời sao. Quan sát màu sắc, độ sáng tối, vị trí của sao chiếu mệnh có thế biết thịnh suy của con người, sự phát triển hoặc tai họa của đất nước.
3.1.8- Xem Tướng
Môn này chủ yếu dựa vào quan sát con người để nhận định về tính cách, số phận. Có một số cách xem. Nhân tướng chia ra Tĩnh tướng và Động tướng. Tĩnh tướng xem xét toàn bộ con người nói chung và đặc biệt là xem hình dáng các bộ vị trên mặt, xem trong trạng thái yên tĩnh. Động tướng xem xét các việc như giọng nói, dáng đi, đứng, nằm, ngồi. Tướng tay khảo sát trạng thái của bàn tay, ngón tay, đặc biệt là các đường chỉ và các dấu hiệu trên lòng bàn tay. Xem tướng, có phần thuộc huyền bí, nhưng cũng có phần liên quan đến khoa học, dựa trên phương pháp quan sát và tổng kết, khái quát hóa.
(Còn tiếp. Kỳ sau : mục 3.2- Phong thủy; 3-3-Xem ngày giờ; 3.4- Cầu cúng; 3.5-Tu luyện. 3.6- Một số môn khác. Tiếp theo, từ mục IV đến mục XX- trình bày tương đối kỹ hơn một số môn mà trong mục III chỉ mới giới thiệu qua )
Top of Form
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Bottom of Form

3.2- PHONG THỦY
3.2.1-Đại cương
Môi trường gồm 2 phần quan trọng : Phần tự nhiên (đất nước, không khí, mưa, nắng, nhiệt độ…) và phần tâm linh. Phong thủy (PT) là môn xem xét ảnh hưởng phần tâm linh của môi trường đến con người. Phần tâm linh ở đây chủ yếu liên quan đến ĐẤT, kèm theo là Nước, Gió. Phong thủy gồm 2 mảng lớn là Dương trạch và Âm trạch. Dương trạch xem xét chỗ ở và hoạt động của người sống. Âm trạch xem xét ảnh hưởng mồ mả của tổ tiên, ông bà cha mẹ. PT chủ yếu xem xét sự hoạt động của “ KHÍ”, đó là một dạng của năng lượng tâm linh, được thu nhận từ vũ trụ ( Thiên ), từ hoạt động của Địa cầu ( Địa) và từ các hoạt động của con người( Nhân). PT dương trạch gồm 3 trường phái : Hình thế, Lý số, Trạch vận.
3.2.2- Phong thủy hình thế
Trường phái này xem xét sự tốt xấu của vị trí, của thế đất mà quan trọng nhất là khí của đất , là Long mạch. PT hình thế của các loại nhà quan tâm đến “ Trường khí “ gây ra do tương quan của nhà với những vật thể xung quanh, do sự sắp xếp, bố trí nội thất. Trường phái hình thế còn được gọi là phái Loan đầu, Hình gia , Tọa tinh.
3.2.3-Phong thủy Lý số
Trường phái này xem xét sự tốt xấu của nhà theo các phương hướng. Người ta chia mặt đất thành 8; 24 hoặc 72 phương ( ứng với góc ở tâm của mỗi phương bằng 45; 15; 5 độ). Xét sự tốt xấu của mỗi phương đó. PT lý số có hai quan điểm là PT cá nhân và PT cộng đồng. PT cá nhân xét sự tốt xấu phụ thuộc mệnh số mỗi người ( Phi cung ), đại diện là môn phái Bát trạch với 8 phương hướng vơi 8 quan hệ ( Sinh khí, Phúc đức, Thiên y, Phục vị- Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát, Họa hại). PT cộng đồng xét tốt xấu chung cho mọi người, đại diện là môn phái 24 phương ( Nhị thập tứ sơn). Ngoài ra còn có môn phái Dương trạch tam yếu. PT Lý số còn có tên gọi là phái Pháp gia, Lý khí, Hướng tinh.
3.2.4- Phong thủy trạch vận
Trường phái này xét tốt xấu của các phương hướng thay đổi theo theo thời gian, dựa vào sự chuyển động và sắp xếp của 9 sao ( cửu phi tinh ). PT trạch vận còn được gọi là phái Phi tinh, Nhật gia, Thông thiên học, Huyền không học.
3.2.5-Vài lời nhận xét và căn dặn
PT là một môn khá rộng, có nhiều quan điểm khác nhau, thỉnh thoảng mâu thuẩn nhau. Trong các trường phái thì Trạch vận có kiến thức cao hơn và phức tạp hơn cả. Trong thực hành thì việc xác định khí đất và Long mạch là rất khó. Giữa PT hình thế ( vị trí) và Lý số ( phương hướng) thì VỊ TRÍ quan trọng hơn phương hướng,( nhưng nhiều người không biết nên quá quan tâm đến phương hướng). Trong PT Lý số thì môn phái Bát trạch là đơn giản nhất, thô thiển nhất nhưng lại được nhiều người quan tâm ( vì hiểu biết có hạn). 
Tài liệu PT đã xuất bản và hiện có trên thị trường nhiều vô kể, có đến vài trăm đấu sách, trình bày đủ các môn phái, trường phái. Có nhiều quyển chỉ viết về một vấn đề nhỏ trong một môn phái. Rất nhiều sách trình bày về “ Bố trí nội thất, ngoại thất theo PT”, đó chỉ mới là một phần trong PT hình thế. Tôi chưa thấy có quyển sách nào trình bày có hệ thống các kiến thức, vì vậy đã biên soạn tài liệu “Phong thủy cơ bản” để giảng cho một số lớp sơ cấp. 
Một số bạn hỏi : Bắt đầu học PT nên dùng quyển sách nào. Xin trả lời :
Sách PT có rất nhiều, mỗi quyển chỉ trình bày một phần kiến thức, vì vậy nên bắt đầu bằng tài liệu Phong thủy cơ bản do tôi soạn và quan trọng hơn là dự một lớp học sơ cấp có thầy hướng dẫn, còn nếu chỉ đọc sách thì nhiều khi gặp những điều không sao hiểu được. Nếu không thể làm được như vừa nêu thì cứ đọc quyển sách nào bạn kiếm được, cứ đọc kỹ xem hiểu được đến đâu. Chỉ chú ý rằng đó chưa phải là toàn bộ PT mà chỉ một phần nhỏ, phải biết phần đó thuộc môn phái nào, trường phái nào. Nếu không tiếp thu được hoặc đã hiểu được rồi thì tìm đọc quyển khác. Nhắc lại, nên bắt đầu bằng một lớp học và dùng tài liệu PHONG THỦY CƠ BẢN.
Một số bạn nhầm, cho rằng PT bao gồm cả những chuyện như xem ngày giờ, xem tuổi tác kết hôn, bói toán, cúng bái. Sự khác nhau giữa các môn vừa kể cũng giống như khác nhau giữa các môn toán, lý , hóa, sinh.
3.3-Xem ngày giờ
Xem mức độ tốt xấu của ngày giờ có một số cách, dựa trên các nguyên lý khác nhau và thỉnh thoảng mâu thuẩn nhau. Cách thông thường dựa trên Can Chi của ngày giờ, xem sự tương sinh hoặc tương khắc ngũ hành của Can-Chi để xét, cách này đơn giản, dễ học. Một cách khá phổ biến là tìm ngày hoàng đạo, giờ hoàng đạo, đó là ngày giờ tốt, tránh ngày hắc đạo là ngày xấu. Lại có cách xem ngày tốt xấu theo Trực ( sao Trực nhật : Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Dịnh, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu, Khai, Bế- theo chu kỳ 12 ). Lại có cách xem theo Nhị thập Bát tú , dựa vào 28 chòm sao trên đường đi biểu kiến của mặt trời ( Giốc, Cang, Đê , Phòng, Tâm Vĩ, Cơ-- Đẩu , Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích-- Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm—Tĩnh , Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn ). Cách xem khá rắc rối và có nhiều mâu thuẩn là dựa vào các sao, các thần ( Thần sát- thí dụ ngày nguyệt kỵ, ngày tam nương, …, sao Nguyệt phá, sao Thiên hỷ v.v…). Nó rắc rối và mâu thuẩn vì có các môn phái khác nhau, dựa vào các thần, các sao khác nhau.
Xem ngày giờ như trên là chung cho mọi người ( cộng đồng). Cách xem tốt xấu theo từng năm phân biệt nam nữ và theo bảng lập sẵn, dựa vào Sao chiếu mệnh ( La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Vân hớn, Kế đô, Thái âm, Mộc đức- theo chu kỳ 9 năm). Làm nhà và kết hôn thường kiêng kị các năm phạm tuổi “ Kim lâu”, riêng làm nhà còn kiêng thêm các năm Hoang ốc, Tam tai, Thái tuế.
Tôi đã học nhiều cách xem ngày giờ và rút ra nhận xét : sự tốt xấu của năm tháng ngày giờ chủ yếu là đối với những người đức mỏng, phúc ít, thiếu từ tâm, thiếu bản lĩnh, thường có hành động gian lận. Đối với những người có lòng tự tin cao, sống trung thực, ngay thẳng, không có tà tâm thì sự tốt xấu của ngày giờ có tác dụng rất ít, không đáng kể, không cần quan tâm. Thí dụ như trong cuộc sống bình thường, những người hay làm việc gian lận mới sợ đụng vào luật pháp, còn những người lương thiện thì không sợ. Người Việt rất sợ gia đình có người chết vào ngày Trùng tang liên táng.
Về xem ngày giờ, nên rất cảnh giác, thận trọng với việc dùng các sách “ Lịch vạn sự”, đó là các tập sách mỏng bán đầy trên thị trường, không ghi tên người soạn, in chui. Theo tìm hiểu của các nhà nghiên cứu lịch pháp, một số sách Lịch vạn sự không đủ tin cậy.
3.4-Cầu cúng
Cầu là cầu xin, thỉnh cầu, cúng là cúng bái. Cầu cúng là việc người sống hướng đến CÁC VỊ BỀ TRÊN ( Trời, Phật, Chúa, Thần Thánh…) hoặc linh hồn các bậc được thờ phụng để thể hiện lòng tôn kính, lòng tưởng nhớ , để cầu nguyện hoặc cầu xin sự che chở, sự giúp đỡ. 
Hình thức cơ bản là làm lễ (tế lễ, lễ bái, dâng lễ…). Quan trọng nhất của tế lễ là Tâm kính, Lòng thành. Phương châm là Tế Như Tại ( tế Thần như Thần tại ), nghĩa là ta đang tế lễ vị Thần nào thì phải hình dung, phải công nhận vị Thần ấy đang có mặt tại nơi đó để không những quan sát ta, chấp nhận hay không những lới khấn vái của ta mà còn thấu hiểu lòng thành thật của ta đến mức nào. Tế lễ thường kèm theo lễ vật, đó là sự thể hiện ra bên ngoài của lòng thành chứ không phải là quyết định. Một số người nhầm lẫn, cho rằng đồ lễ càng lớn thì tác dụng của lễ bái càng cao mà không biết rằng tác dụng của lễ bái chính là ở Tâm. Trong các lễ vật thì một số nơi có phong tục đốt vàng mã. Theo tôi đó là một phong tục không có hiệu quả gì mà còn lãng phí, nên hạn chế đến bãi bỏ. Việc thắp hương chỉ nên vừa phải, nhiều quá cũng không tốt. Việc tranh giành nhau để dâng hương, dâng lễ hoặc nhận lộc là hành động xấu xa, phản lại yêu cầu cơ bản của lễ bái. Quan trọng là Tâm kính, Lòng thành.
Cầu nguyện là việc làm mang lại hiệu quả tốt cho tinh thần. Để thực hiện cầu nguyện không nhất thiết phải đến nơi thờ tự mà có thể ở bất kỳ đâu, vào bất cứ lúc nào, Đạo Phật có việc Tụng Kinh, Thiên Chúa giáo có việc Đọc kinh, các việc này có tác dụng tương tự như cầu nguyện.
Cầu xin ( danh, tài, lộc, sức khỏe…) là việc mà nhiều người muốn, thực hiện nhiều lần, nhiều nơi, nhưng lại là việc không nên làm. Phật, Thánh không trừng phạt ai cả, cũng không cho ai cái gì cả. Các Ngài chỉ hướng dẫn, chỉ bảo đường hay lẽ phải, giúp nhận ra điều tốt để theo, điều xấu để tránh. Cầu xin, một phần nào đó thể hiện sự yếu đuối, hèn kém và lòng tham của con người, xin nhưng chẳng ai cho.
3.5-Tu luyện
Tu luyện là cách người ta luyện tập tinh thần và năng lượng tâm linh để nâng cao sự minh mẫn, thông tuệ, để có khả năng tốt chống lại sự xâm nhập của những độc hại, cao hơn là để có được những khả năng đặc biệt. Tu luyện bắt đầu bằng việc tập trung ý thức, tạo thành nguồn năng lượng tác động vào các tầng hào quang. Đơn giản nhất của việc tu luyện là tập và thực hành một số môn như Thiền, Khí công, Pháp luân công , Yoga, Nhân điện, Năng lượng sinh học, …Các môn này thường bắt đầu bằng phương pháp tập thở ( Thở là hoạt đông vừa thuộc ý thức và vô thức, tôi gọi Phổi là cơ quan Liên thức).
Tu luyện thường liên quan đến ĐẠO. Mỗi Tôn giáo có cách tu luyện khác nhau. Đạo Phật có nhiều môn phái tu luyện, trong đó tu theo Mật tông có thể đạt Thần thông quảng đại, Đạo Lão có phép tu Tiên. Yoga -tu luyện thành Pháp sư. Khí công-tu luyện thành người có khả năng siêu phàm.
3.6- Một vài HĐ huyền bí khác
Về HĐ huyền bí, ngoài những môn kể trên còn có một số các HĐ khác, chưa biết nên ghép vào đâu, tôi tạm để riêng, gồm có chữa bệnh từ xa, thần chú, bùa chú, cầu hồn, cầu đồng.
Chữa bệnh từ xa, không dùng thuốc. Khi người ta bị bệnh ở một bộ phận nào đó, vùng tương ứng với bộ phận ấy trên 7 tầng hào quang bị rối loạn. Thầy chữa có thể dùng năng lượng tâm linh của mình (năng lượng vũ trụ, năng lượng sinh học) tác động vào trường hào quang bệnh nhân, giúp cho tầng hào quang tự điều chỉnh. Khi sự rối loạn được khắc phục thì bệnh khỏi. Năng lượng tâm linh này thầy chữa có thể nhờ tu luyện mà tích lũy sẵn hoặc trực tiếp thu từ vũ trụ rồi truyền cho bệnh nhân. Việc truyền này có thể do tiếp xúc hoặc truyền từ xa. Thầy không trực tiếp chữa bệnh mà truyền năng lượng để phần tâm linh của người bệnh tự điều chỉnh, tự chữa bệnh, vì thế việc chữa bệnh từ xa này có tác dụng vạn năng, có thể đồng thời truyền cho một số đông người ( chữa tập thể), hoàn toàn khác với cách chữa của Tây y và Đông y. Hiện tại có một số người chữa bệnh theo một số cách huyền bí, không được y học hiện đại công nhận, trong số họ có một số người sử dụng được năng lượng tâm linh nhưng cũng có một số kẻ bịp bợm, lừa đảo.
Thần chú là những câu có nội dung hoặc từ ngữ đặc biệt mà khi đọc lên thành tiếng hoặc niệm thầm sẽ có một tác dụng nào đó. Thí dụ niệm chú trừ tà : Úm ma ni Bát minh hồng ; niệm chú khi chữa răng đau : Mit su Mi si hia Roc…Mật Tông của đạo Phật sử dụng khá nhiều thần chú. Để học và dùng được thần chú phải tuân thủ một số điều kiện hạn chế trong đời sống.
Bùa chú hay Bùa ngãi là một dạng hoạt động huyền bí ( có cả mặt tích cực, giúp người và cũng có mặt tiêu cực, làm hại người). Bùa chú có nhiều loại, thường dùng giấy hay vải, trên đó trình bày một số hình vẽ, chữ viết, cũng hay dùng các vật phẩm được chế tác theo công thức đặc biệt, trong đó có các hình nhân. Khi làm bùa thường kèm theo đọc thần chú. Ở VN bùa chú hay được dùng trong một vài dân tộc thiểu số .
Cầu hồn (gọi hồn). Đó là việc những người sống gọi hồn người đã chết để giao lưu, thường để hỏi một vài việc nào đó. Việc này thường diễn ra theo một trong các cách sau : 1- Nhờ Thầy pháp lập đàn tràng, chọn một người ngồi làm Thế Thân. Thầy pháp cúng bái để gọi hồn về nhập vào Thế thân và tiến hành giao lưu. 2- Có những người có khả năng ngoại cảm, họ gọi mời được hồn về, hồn không cần nhập vào ai cả mà giao lưu với người sống thông qua trung gian ( phiên dịch) là nhà ngoại cảm. 3-Ở một số nơi thờ tự có tổ chức gọi hồn sau những đợt cầu siêu. Những người trong một nhóm (một gia đình, một dòng họ…) ngồi tập trung một nơi và mọi người đều sẵn sàng tâm thế để đón nhận hồn nhập. Có thể có nhiều nhóm như vậy đồng thời. Chủ trì nơi thờ tự làm lễ gọi mời. Trong mỗi nhóm hồn ai sẽ về và nhập vào người nào là chưa biết trước. Ngoài các cách trên, trong một số lần các gia đình tổ chức tìm mộ liệt sĩ, hồn liệt sĩ đã nhập vào một người trong đoàn tìm kiếm để hướng dẫn.
Cầu Đồng. Tương tự như cầu hồn dạng 1, nhưng không phải cầu hồn một người trong gia đình mà là cầu mời một vị thuộc bậc Thần, Thánh được thờ tự. Thế thân ( người được hồn hoặc Thần Thánh nhập vào để giao lưu) không phải là người được chọn tạm thời mà là những “ Con Đồng” đã được chuẩn bị chu đáo, có nghiệp vụ. Các vị Thần Thánh được cầu lên để giao lưu với những người hâm mộ hoặc với người muốn cầu xin một vài lời chỉ bảo nào đó về cuộc sống, chữa bệnh. Cầu Đồng là một nét văn hóa dân gian đặc biệt.
( Còn tiếp. Kỳ 3- Mục IV- Các môn Thái Ất, Độn Giáp, Lục Nhâm. Các kỳ tiếp : Mục V đến XX )

IV- CÁC MÔN THÁI ÂT, ĐỘN GIÁP, LỤC NHÂM
4.1- Nội dung của Thái Ất ,
Còn gọi là Thái Ất thần kinh, chủ yếu dùng để dự đoán những việc lớn như vận nước, chiến tranh…, ngoài ra cũng có thể dự đoán việc hàng ngày. Thái Ất chủ yếu xét các hiện tượng trên Trời ảnh hưởng đến xã hội loài người. Có thể lập quẻ Thái Ất cho năm, tháng, ngày, giờ bằng cách tìm và đặt vị trí của các sao ( Thái Ất, Thái tuế, Thần hợp, Kế thần, Thái âm, Đại tướng, Tham tướng, Ngũ phúc, Quân cơ, Thần cơ, Dân cơ v.v..). Chia bầu trời thành 9 cung, đặt tên theo Bát quái. Vị trí của sao là xem nó nằm ở cung nào. Sao Thái Ất ở trước sao Bắc Thần, là Tôn thần của Thiên Đế, vị trí của nó chủ yếu để xét tình hình trong nước, sự hưng vong của triều đại, của chế độ, các hiện tượng thời tiết đặc biệt, chiến tranh, đói rét, bệnh tật.
Lập cục bằng cách an các sao vào các cung. Từ vị trí các sao và thời gian đưa về 72 cục dương độn và 72 cục âm độn. Thời gian dương tính từ đầu tiết Đông chí ( vào khoảng ngày 21 hoặc 22 tháng 12 dương lịch ) đến bắt đầu Hạ chí ( 21/22 tháng 6 ). Thời gian âm từ Hạ chí đến Đông chí.
Tương truyền sách Thái Ất do Lương Đắc Bằng,(1472- 1522- thầy của Nguyễn Bình Khiêm) được một quan người Tàu cho, không rõ ông đã đọc và vận dụng được như thế nào. Khi sắp mất ông truyền sách lại cho học trò. Nguyễn Bỉnh Khiêm( 1491-1585) đã viết sách Thái Ất thần kinh, truyền ra ngoài. Về sau có một số người học được. Lê Quý Đôn (1726-1784 ) viết sách Thái Ất dị giản lục, Phàm Đình Hổ (1768- 1840) viết Huyền Phạm tiết yếu.. . Quyển Thái Ất Thần Kinh đã được dịch, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in và phát hành thành 7 cuốn ( năm 2002 )
Thái Ất, tôi có dịp được nghe GS Nguyễn Hoàng Phương giới thiệu mộ số buổi,có tham khảo vài quyển sách nhưng nói chung chỉ biết chung chung, chưa vận dụng được. 
Cũng mang tên môn Thái Ất còn có Thái Ất thần quẻ, là phương pháp ứng dụng Dịch học để lập quẻ dự đoán bằng hình thức lắc hào. Quẻ gồm có năm hào, mỗi lần gieo một đồng tiền để xin Âm Dương cho từng hào, khác với môn Thái Ất này.
4.2-Nội dung Độn Giáp
Còn gọi là Kỳ môn độn Giáp, Bát môn độn Giáp. ( Kỳ là Tam kỳ, Môn là Bát môn). Môn này dựa chủ yếu vào những ảnh hưởng của các thông số liên quan đến Địa ( trong Thiên, Địa, Nhân). Trước đây Độn Giáp ( ĐG) chủ yếu dùng trong quân sự và chính trị, ngày nay nó được dùng để dự đoán đủ mọi loại việc từ bé đến quốc gia đại sự, kinh doanh, thời tiết v.v... Ngoài các cơ sở âm dương, ngũ hành, can chi, bát quái còn dùng thêm Bát môn ( 8 cửa : Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai), Cửu Tinh ( 9 sao :Thiên Bồng, T Nhuế, T Xung, T Phụ, T Cầm, T Tâm, T Trụ, T Nhâm, T Anh), Nhị thập bát tú. Trong 10 Can thì Giáp được để riêng ( độn giáp), còn lại chia thành Tam Kỳ ( Ất, Bính, Đinh) và Lục Nghi ( Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Về thời gian, chia thành các Kỷ, mỗi Kỷ 180 năm, chia thành 3 nguyên ( Tam nguyên : Thượng, Trung, Hạ ). Mỗi nguyên 60 năm, bắt đầu từ năm Giáp Tý đền hết năm Quý Hợi. Mỗi nguyên chia thành 3 vận, mỗi vận 20 năm. Một năm chia thành 24 tiết khí (Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn, Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết).Mỗi năm bắt đầu từ tiết Lập xuân, vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch. Mỗi tiết khí kéo dài 15 ngày. Từ Đông chí đến Hạ chí là thời gian dương, từ Hạ chí đến Đông chí là thời gian âm. Mỗi ngày chia thành 12 giờ ( Tý, Sửu…Tuất. Hợi). Trong mỗi ngày, từ đầu giờ Tý đến cuối giờ Tị là thời gian dương, từ đầu giờ Ngọ đến cuối giờ Hợi là thời gian âm.
Để lập quẻ ĐG cần biết thời gian, có bản đồ ĐG, trong đó tìm ra Trực phù, Trực sứ. Trực Phù được chọn từ một trong Cửu Tinh ( Thiên Bồng, Thiên Nhuế…). Trực Sứ chọn một trong Bát Môn ( Hưu, Sinh…).Lập quẻ ĐG bằng cách an các thông số ( can, chi, ngũ hành, bát quái, bát môn, cửu tinh, trực phù, trực sứ…) vào các ô trong đỉnh bàn, thiên bàn, địa bàn, nhân bàn. Từ các số liệu đưa về thành 9 cục dương độn và 9 cục âm độn, mỗi cục được ghi bằng con số từ 1 đến 9. Từ cục và tương quan của các thông số sẽ phán đoán sự việc theo những công thức lập sẵn.
Tương truyền Khổng Minh là người rất giỏi môn ĐG thời Tam quốc bên Tàu. Trước mỗi lần ra trận ông đều lập quẻ ĐG, xác định thời điểm và hướng xuất binh, vị trí mai phục…vì thế luôn giành chiến thắng.
Về ĐG tôi đã được Cụ Vũ Xuân Quang giảng dạy trên 100 tiết, vào thời kỳ năm 1995, đã có thể trở thành trợ giảng cho Cụ, nhưng lâu ngày không vận dụng, không ôn luyện nên quên nhiều.
4.3- Nội dung Lục Nhâm đại độn
Lục Nhâm là 6 chữ Nhâm ( Can Nhâm ) trong 60 cặp Can Chi, đó là Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Tý. Lục Nhâm hiện có 2 : Tiểu độn và Đại độn. Lục nhân tiểu độn chỉ là một thuật toán nhằm xem giờ xuất hành để làm việc gí đó có thuận lợi không. Bấm quẻ trên bàn tay và tìm ra một trong 6 trạng thái : Đại an, Tốc hỷ, Lưu liên, Khẩu thiệt, Tiểu cát, Không vong. Lục Nhâm đại độn mới là một trong 3 môn Tam Thức, thuộc về Nhân. Mục tiêu chủ yếu của dự đoán Lục Nhâm là về số phận, thành bại của con người.
Lập quẻ Lục Nhâm chủ yếu dựa vào thời gian. Năm là năm theo Can chi. Tháng theo tiết khí. Tháng 1 ( Giêng) bắt đầu từ tiết Lập xuân…, tháng 12 bắt đầu từ Tiểu hàn. Nguyệt kiến là tháng nào ứng với Chi nào. Tháng 1 kiến Dần, tháng 2 kiến Mão…tháng 11 kiến Tý, tháng 12 kiến Sửu. Lập Thiên bàn và Địa bàn, mỗi bàn gồm 12 cung ( Tý, Sửu…Tuất Hợi). Có 10 thần, bốn tướng ( 10 thần : Thiên cương, Thái ất, Thăng quang, Tiểu cát, Truyền tống, Tống khôi, Hà khôi, Đăng minh, Thần hậu, Đại cát. 4 tướng: Tý, Ngọ, Mão, Dậu ). Lại quy định 7 Nguyệt tướng và 12 Thiên tướng ( 7 Nguyệt tướng : Tý , Sửu, Dần , Mão, Dậu , Tuất, Hợi. 12 Thiên tướng : Quý nhân, Đằng xà, Chu tước, Thiên hợp, Câu trận, Thanh long, Thiên không, Bạch hổ, Thái thường, Huyền vũ, Thái âm, Thiên hậu )
Cách lập quẻ là dựa vào những công thức có sẵn, đưa Nguyệt tướng, Thần của ngày , Thần của giờ ( Nhật thần, Thời thần ) vào các cung, tìm vị trí của Quý nhân rồi từ đó an các tướng khác. Đoán quẻ dựa trên sự tương quan của các thần các tướng và một số công thức khác.
Về Lục Nhâm, tôi chỉ mới học được Lục Nhâm tiểu độn, còn Đại độn chỉ mới biết sơ qua.
( Còn tiếp- Kỳ 4- Mục V- Đại cương về Tử vi. Tiếp theo : VI- Hà Lạc. VII- Tứ trụ….cho đến XX ).

ĐAI CƯƠNG VỀ VĂN HÓA HUYỀN BÍ ( KỲ 4)
V-ĐẠI CƯƠNG VỀ TỬ VI, HÀ LẠC, TỨ TRỤ
5.1- VỀ TỬ VI
5.1.1-Giới thiệu
Tử ví ( tử vi đẩu số, tử vi chỉ nam…) là môn dự đoán số phận con người dựa vào thời điểm ra đời theo phương pháp sinh đẻ tự nhiên . Năm và giờ được tính theo Can chi, ngày và tháng tính bằng con số . Thí dụ A sinh giờ Mão, ngày 25 tháng 8 năm Đinh Dậu. Để lập lá số Tử vi cần kẻ bảng với một ô chữ nhật lớn ở trung tâm và 12 ô nhỏ xung quanh, kề trên mỗi cạnh của ô trung tâm có 2 ô nhỏ, kề với 4 góc của ô trung tâm có 4 ô nhỏ nữa. Hình dung các ô vừa vẽ như bề mặt của chiếc đồng hồ. Dùng 12 Chi ( Tý, Sửu…Hợi) đặt tên các ô với Tý ở ô nằm giữa vị trí 5 và 6 giờ của mặt đồng hồ. Theo chiều kim đồng hồ đặt tiếp Sửu, Dần, Mão…Hợi ). Trong các ô ấy sẽ an các thông số về cuộc đời, gọi là các Cung (12 cung: Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ ) và các Sao ( 111 sao thuộc các chòm ). Trong ô lớn ở trung tâm ghi các thông số cơ bản : Năm, tháng, ngày , giờ sinh, nam hay nữ, âm hay dương, cục nào. ( dựa vào âm dương can chi của năm sinh, kết hợp thành : dương nam, âm nam, dương nữ, âm nữ . Thí dụ A ở trên, Đinh Dậu thuộc âm, vậy với A sẽ là âm nam, hoặc âm nữ. Dựa vào lá số đã lập để dự đoán những vấn đề thuộc số mệnh trong suốt cuộc đời.
5.1.2-Lập cung, cục, an sao
Với mỗi người 2 thông số quan trọng là Mệnh và Thân. Từ tháng và giờ sinh tìm được vị trí Cung Mệnh và vị trí của Thân. Từ đó, theo chiều kim đồng hồ ( CKĐH) an các Cung còn lại ( Phụ mẫu, Phúc đức…Huynh đệ ) Thí dụ với anh A ở trên ( tháng 8, giờ Mão), tìm được cung Mệnh ở ô Ngọ, Thân ở ô Tý, tại ô Tý đó đã an cung Thiên di. Nói rằng Thân cư Thiên di. Dựa vào Can của năm sinh và cung mệnh để xếp vào 1 trong 5 cục theo ngũ hành : Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục ). Chú ý là ngũ hành của cục có thể khác với ngũ hành bản mệnh. Anh A , năm Đinh Dậu, cung Mệnh ở Ngọ, tìm đươc Thủy cục, còn ngũ hành bản mệnh của năm Đinh Dậu là Sơn hạ Hỏa. Về Cục, ngoài ngũ hành thường người ta kèm thêm chữ số ( Thủy Nhị, Mộc Tam, Kim Tứ, Thổ ngx, Hỏa Lục )
Sao trong Tử vi, có 111 ngôi gồm 14 sao chính và 97 sao phụ. Sao dịch từ chữ Tinh, nhưng không có nghĩa là một ngôi sao nào đó ở bầu trời, tuy rằng có một số sao trùng với tên của một tinh tú nào đó. Sao ở đây là một biểu tượng, mỗi sao có một số tính chất tốt xấu, có tác động, ảnh hưởng trong một số lĩnh vực ( sức khỏe, học vấn, tình cảm, tiền tài, danh vọng….). Mỗi sao có Ngũ hành. Trước tiên an 14 sao chính tron g chòm Tử vi ( 14 Chính Tinh : Tử vi, Liêm trinh, thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ, Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân). Tiếp theo, lần lượt an 97 Phụ Tinh.
Việc lập một lá số tử vi không có gì là bí ẩn và phức tạp, được tiến hành theo các công thức cố định. Hiện nay có một số chương trình máy tính, lập lá số chỉ trong vài giây.
5.1.3- Giải đoán
Trước hết dựa vào năm sinh để tìm Tiểu hạn, tiếp theo dựa vào Dương nam, Âm nữ hay Âm nam , Dương nữ và Cục để tính đại hạn ( Tiểu hạn, đại hạn là những quảng thời gian của cuộc đời, được phân chia ra để xem xét). Ghi dấu sự liên quan mật thiết giữa một số cung : 3 cung Mệnh- Thân- Phúc; 3 cung Mệnh, Phụ mẫu, Huynh đệ , 3 cung Quan lộc, Thiên di, Nô bộc.
Tác dụng của mỗi sao dựa vào 2 yếu tố ; 1- Bản chất của sao đó ( tốt hoặc xấu về lĩnh vực gì). 2- Môi trường của sao gồm vị trí và tương quan với các sao khác ở trong cùng một cung hoặc trong các cung liên quan. Về vị trí, xét tương sinh hoặc tương khắc ngũ hành của sao và ngũ hành của ô ( Tý, Sửu, Dần, Mão…). Về tương quan xét ảnh hưởng qua lại. Môi trường làm tăng hay giảm tính chất tốt xấu và mức độ tác động của mỗi sao.
5.2- VỀ HÀ LẠC
5.2.1-Giới thiệu
Còn gọi là Bát tự Hà lạc. Bát tự là 8 chữ. Hà Lạc là Hà đồ và Lạc thư. Mục tiêu của môn này cũng giống với Tử vi, cũng dựa vào thời điểm ra đời, với năm, tháng, ngày, giờ đều biểu thị bằng cặp Can Chi, tổng cộng có 8 chữ. Thí dụ : năm Bính Thân, tháng Nhâm Thìn, ngày Đinh Sửu, giờ Quý Mão. Từ 8 chữ , theo quy tắc của Hà đồ và Lạc thư, đổi thành các con số, mỗi Can là một số , mỗi chi gồm 2 số. Tổng cộng 12 số, lại chia ra 2 nhóm : nhóm số dương và nhóm số âm. Mỗi nhóm sẽ rút gọn về thành 1 con số ứng với một quái đơn trong Bát quái ( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài ). Đem chồng 2 quái đơn sẽ được một Quái kép, là một Quẻ trong 64 Quẻ của Kinh Dịch. Dựa vào Quẻ đó để giải đoán.
5.2.2- Đổi Can Chi thành con số Hà Lạc
Theo truyền thuyết Hà đồ và Lạc thư là 2 biểu tượng được người xưa tìm thấy ở sông Hà và sông Lạc, dưới dạng các dấu trên lưng ngựa thần và rùa thần, thể hiện các số đếm và quan hệ với âm dương, ngũ hành. Lẻ là dương, thuộc về Thiên, chẵn là âm, thuộc về Địa. Theo Hà Đồ thì hành Thủy ứng với số 1 và 6. Hỏa- 2; 7. Mộc-3; 8. Kim-4; 9. Thổ-5; 10. Số trước là số sinh, số sau là số thành ( Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi. Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi…). Ngũ hành của các chi như sau : Thủy : chi Hợi và Tý; Hỏa : Tị - Ngọ; Mộc : Dần – Mão; Kim : Thân- Dậu; Thổ : Thìn-Tuất- Sửu-Mùi. 
Từ Lạc Thư gắn các số cho Bát Quái hậu thiên : số 1- Khảm; 2- Khôn; 3- Chấn; 4-Tốn; 6- Càn; 7- Đoài; 8- Cấn; 9- Ly. Từ đó dùng một con số để thay cho Can. Can Giáp- số 6; Ất-2; Bính-8; Đinh-7; Mậu-1; Kỷ-9, Canh-3; Tân-4; Nhâm-6; Quý-2. Thí dụ năm Bính Thân biến đổi thành : Can Bính- số 8. Ngũ hành của chi Thân là Kim, số 4;9. Vậy Bính Thân đổi thành số 8.4.9, Quý Mão thành 2.3.8, trong đó 9 và 3 là số dương, 8 ; 4 ; 2; 8 là số âm.
5.2.3- Tìm Quẻ Dịch
Trước hết tìm Quẻ Tiên thiên ( ý nghĩa là quẻ Trời cho). Từ can và chi của năm, tháng, ngày giờ đã có 12 số. Cộng các số dương ( số lẻ ) lại với nhau được số A. Cộng các số âm ( chẵn) được số B. Đem chia A và B cho 9, lấy số dư là a và b ( nếu chia chẵn 9 thì lấy a ; b bằng 9 ) Từ số a, b , xem là số của Quái đơn, xác định được 2 quái. Thí dụ a=4- quái Tốn; b=7- quái Đoài. Đem chồng 2 Quái đó lên nhau thu được một Quẻ của Kinh Dịch. Gọi đó là quẻ Tiên thiên. Đảo vị trí hai Quái đơn sẽ được Quẻ Hậu thiên ( ý nghĩa là phần phấn đấu, hoạt động của bản thân). Mỗi quẻ có 6 hào. Quan trọng nhất là hào Nguyên đường. Theo các quy tắc tìm ra hào đó. Tiếp theo lập Quẻ Hỗ ( hỗ trợ, giúp thêm ).
5.2.4-Giải đoán
Trước tiên dựa vào vị trí hào nguyên đường để tìm các đại vận, đó là khoảng thời gian 6 hoặc 9 năm kế tiếp, sau tìm Lưu niên ( tiểu vận, ứng với từng tuổi). Giải đoán Hà Lạc là việc dựa vào các Quẻ Dịch lập được để suy luận bằng cách dùng những lời từ cho các quẻ, lời thoán cho từng hào. Cũng như Tử vi, Hà Lạc có thể dự đoán tất cả mọi lĩnh vực trong số mệnh một con người và những nét cơ bản của những người liên quan ( cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em…)
5.3- VỀ TỨ TRỤ
5.3.1-Giới thiệu
Tứ trụ còn được gọi là Tử bình. Tứ trụ là 4 thông số : năm, tháng, ngày giờ khi người ta ra được mẹ sinh ra một cách tự nhiên. Bốn thông số này được biểu diễn bằng Can Chi và từ đó chuyển ra dạng âm dương, ngũ hành để dự đoán về vận mệnh. Thí dụ người sinh lúc 10 giờ sáng, ngày 25 , tháng 3 năm 2016, đổi thành năm Bính thân, tháng Nhâm thìn, ngày Đinh sửu, giờ Ất tị. Can Bính là dương hỏa, Nhâm là dương thủy, Đinh là âm hỏa, Ất là âm mộc. Dự đoán trên cơ sở xét tương quan các ngũ hành vừa nêu, đồng thời xét thêm một số yếu tố khác xuất phát từ 4 thông số đã nêu.
5.3.2- Một số cơ sở
Cơ sở đầu tiên là Can Chi. Có 10 can , 5 can dương : giáp, bính, mậu, canh, nhâm; 5 can âm : ất, đinh, kỷ, tân, quý. Giáp Ất có ngũ hành mộc; Bính Đinh – hỏa, Mậu Kỷ- thổ; Canh Tân-kim; Nhâm Quý-thủy. Mười Can hóa hợp : Giáp hợp Kỷ hóa Thổ, Ất Canh - Kim; Đinh Nhâm-Mộc; Mậu Quý- Hỏa. Mười Can còn được phối hợp với 4 phương, 4 mùa, các bộ vị trong thân thể. Thí dụ Giáp- phương đông, mùa xuân, đầu, mật…
Có 12 chi. 6 chi dương : tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất; 6 chi âm : sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi. Dần Mão có hành mộc; Tị Ngọ-hỏa; Thân Dậu-kim; Hợi Tý – thủy; Thìn Tuất Sửu Mùi-thổ. Về 12 chi, sắp xếp thành : lục hợp, tam hợp, tam hội, tương xung, tương hại.
Cơ sở quan trọng là xét sinh khắc của ngũ hành. Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim. Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Lấy một hành làm chuẩn, gọi là Ta, một hành khác là Nó. Ta và nó có thể : a- một âm một dương, hoặc b- cùng dương, cùng âm. Đặt tên cho các quan hệ như sau : Ta sinh ra nó là :a- Thương quan ( Thương), b- Thực thần ( Thực); Nó sinh ra ta là : Chính ấn ( Ấn), b-Thiên ấn (Kiêu). Ta khắc nó là : a-Chính tài ( Tài), b-Thiên tài ( Tài). Nó khắc ta là : a-Chính quan ( Quan), b-Thiên quan ( Sát). Ta với nó đồng hành là : a-Kiếp tài ( Kiếp), b- Tỷ kiên ( Tỷ). [ Chú ý : Cũng các quan hệ này nhưng trong Bói Dịch lại dùng cách gọi khác, như là Tử tôn, Phụ mẫu, Thê tài, Quan quỷ, Huynh đệ ].
Trong 4 chi của Tứ trụ, mỗi chi còn tàng độn một số can. Thí dụ Chi Tý tàng độn can Quý, Chi Sửu tàng độn các can Quý, Tân, Kỷ v.v...
5.3.3- Lập bảng số liệu
Trước hết viết ra tứ trụ và lấy can của ngày sinh là Ta, là gốc. các can còn lại là Nó. Chỉ ra âm dương, ngũ hành của các Can, xét sinh khắc để đưa về các quan hệ ( thương, thực, ấn, kiêu, tài quan, sát, kiếp, tỷ ).
5.3.4- Giải đoán
Lập đại vân, tiểu vận, lấy các cung : Thai nguyên ( tháng bắt đầu có thai), cung Mệnh. Xét tác dụng, ảnh hưởng của các Thần. Có những Cát Thần như : Thiên ất quý nhân ( QN), Thái cực QN, Nguyệt đức QN, Tam kỳ QN, Phúc tinh QN, Văn xương QN, Thiên y, Lộc thần… Lại tìm những Hung sát như Thiên la địa võng, Dương nhận, Kiếp sát, Tai sát, Cô thần quả tú…
Cũng như Tử vi và Hà Lạc, dùng Tứ trụ có thể dự đoán mọi lĩnh vực của con người qua các giai đoạn từ bé đến lớn, sự thành công và thất bại, ốm đau, tai nạn v.v…
5.4-MỘT SỐ CHÚ THÍCH VÀ NHẬN XÉT
Cả 3 môn đều có cùng mục tiêu và cơ sở giống nhau, khác nhau trong phương pháp và kết quả không hoàn toàn trùng nhau, phần giống nhau khoảng 70%, khác nhau khoảng 30%. Như vậy cả 3 phương pháp đều là gần đúng, trong đó Tử vi tương đối đơn giản , Hà Lạc nói chung có độ gần đúng cao hơn, còn Tứ trụ phức tạp hơn, có độ tin cậy cao hơn hết ( khoảng 75 đến 80% ).
Cả 3 môn đều do một người lập ra, đó là ông Trần Hi Di, hiệu là Trần Đoàn, đời nhà Tống bên Tàu. Đồn rằng ông có khả năng ngoại cảm đặc biệt, sống đến trên 300 tuổi. Đời sau tôn xưng ông là Lão Tổ .
Thực ra sự phát triển, sự thành bại của một con người do tổng hợp giữa 2 yếu tố : Tiên thiên và Hậu thiên, mỗi yếu tố chiếm khoảng 50%. Tiên thiên là những thứ mà bào thai nhận được khi hình thành trong bụng mẹ, đó là sự di truyền, là tinh khí của Trời Đất do bào thai hấp thụ, và nếu tin theo Thuyết Luân hồi Phật giáo thì đó còn là Nghiệp của kiếp trước. Phần Tiên thiên hầu như cố định ( có thể thay đổi nhưng rất khó) và các môn nói trên chủ yếu dự đoán phần này.
Phần Hậu thiên là những điều do con người tiếp thu được từ sau khi sinh ra và sự hoạt động của bản thân, của gia đình. Trong các điều tiếp thu được thì môi trường văn hóa gia đình trong khoảng thời gian từ lúc sinh ra đến tuổi học mẫu giáo là quan trọng nhất. Rồi đến môi trường tự nhiên và xã hội, đến sự giáo dục của nhà trường phổ thông. Trong các hoạt động của bản thân thì sự tu dưỡng về đạo đức ( thương yêu và tôn trọng mọi người), sự hình thành ý chí, nghị lực, năng lực là quan trọng nhất. Trong hoạt động của gia đình thì việc ông bà, cha mẹ để lại phúc đức là chủ yếu ( ảnh hưởng của phong thủy là phần phụ)
Theo tôi, số mệnh của con người là có thật, nó diễn ra theo thời gian, có lên, có xuống, lại có những lúc đột biến. Tuy vậy sự diễn biến không phải theo một đường mà theo một miền, có giới hạn trên và giới hạn dưới. Tại một thời điểm, một sự kiện có giá trị max và min . Sự việc thực tế sẽ xẩy ra với giá trị ở giữa max và min ấy, nó nằm ở đâu là do Hậu thiên.Thí dụ : 1- Bạn có số làm quan từ năm 30 đến 50 tuổi, đó mới là thuộc Tiên thiên mà max đến Chủ tịc tỉnh, min là Tổ trưởng dân phố. Bạn sẽ làm được chức gì là do tài năng và quan hệ. 2- Theo số, vào tháng 7 năm 23 tuổi bạn bị tai nạn, max là bị thương nặng, gãy tay chân, dập gan, rách phổi, min là bị ngã, sướt da, chảy máu. Đúng thời gian ấy bạn sẽ bị nạn , mức độ như thế nào là tùy thuộc vào sự đề phòng, sự luyện tập và đạo đức của bạn.
Việc thực hành các môn trên đây đòi hỏi người làm dự đoán phải có năng khiếu, có say mê, có trí nhớ tốt, có khả năng suy đoán, biết kết hợp giữa lý thuyết sách vở và những quan sát, nhận xét từ thực tế.
Một câu hỏi lớn được nhiều người đặt ra trong hàng nhiều trăm năm : Phải chăng những người có cùng thời điểm ra đời sẽ có số mệnh giống nhau. Thực tế thì : Mỗi người một số mệnh, không có ai giống ai cả. Đó là do sự tác động, ảnh hưởng của Hậu thiên.Điều này đã được một số nhà nghiên cứu lý giải trong nhiều tài liệu.
( Còn nữa. Tuy vậy tạm nghỉ khoảng 20 ngày, tôi bị bận vào nhiều việc cần kíp chưa viết tiếp được)





Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016

THIÊN ĐƯỜNG
( Tặng Lan Lê )


Đêm qua lên tận thiên đình
Gặp nàng tiên nữ vừa xinh vừa giòn
Ngồi bên chồng với các con
Cùng hai cháu nội tuổi còn ấu thơ
Thiên đình có thật không mơ
Có đàn hát, có văn thơ , rượu nồng
Có mây trắng, có hoa hồng
Và chỉ không có cái ông Ngọc Hoàng
Nếu không tin cứ lên đàng
Tìm về khu 6, Nông Trang, Việt Trì .

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Lưu Á Châu

Người Trung Quốc đang thiếu một vị thuốc

Posted on  by nghiemluongthanh
KHẮC TRUNG giới thiệu tham khảo
1) Thượng tướng Lưu Á Châu nói : người Trung quốc chúng ta đang thiếu vị thuốc này.
Ngày 25/4/2016 trên trang mạng “Tinh thần” đưa ý kiến của thượng tướng Lưu Á Châu về thực trạng Trung Quốc hiện nay, Ông Lưu nói, thực trạng hiện nay là : Cái gì người dân cũng chẳng tin, chuyên gia cái gì cũng chẳng hiểu, báo chí cái gì cũng chẳng nói, giáo dục chính trị gì cũng chẳng dùng được vào việc gì. Tại sao giáo tài chính trị của bộ đội không được bộ đội hoan nghênh ? Tại sao những điều viết trên báo chí tạp chí không thể đi sâu vào lòng người ? Bởi vì anh là giả, không thể đi sâu vào lòng người. Những thứ anh viết ra đó, ngay cả anh cũng chẳng tin, lại muốn để người khác tin, đó chẳng phải là cuội sao ? Những thứ anh viết, trước tiên bản thân anh có tin không ? con anh có thèm xem không ? Đây cũng là một thứ trung thực. Bài viết không trung thực với làm người không trung thực là như nhau. Ngòi bút là có sức nặng ngàn cân. Bài viết ra nhất định phải chân thực. Nội hàm căn bản của viết một bài viết trung thực là ở chân thực, chân thực mới có sức sống. Người xưa nói, làm người phải đoan chính, làm văn phải phóng túng. “Phóng túng” nói ở đây là chỉ sự phóng thoáng về tư tưởng. Con người cần thực thà, nhưng văn chương cần tài hoa gấm vóc. “Phóng túng” và tài hoa gấm vóc, trước hết là xây dựng trên cơ sở chân thực. Không có chân thực, tuyệt nhiên không thể có văn chương gấm vóc. Chỉ dựa vào thuyết giáo là chinh phục không nổi lòng người. Thuyết giáo không có sức sống, chứ đừng nói tới danh sơn cất dấu truyền cho đời sau. Ở đây vẫn có vấn đề về thể chế, vấn đề về giáo dục. Bởi vì thế hệ chúng ta từ khi bắt đầu viết văn là đã nói xạo. Tôi cũng đã từng nói láo. Chúng ta đều đã từng viết bài như thế, ví như “Tôi nhặt được một đồng tiền đưa cho chú cảnh sát, chú cảnh sát hỏi em tên gì, tôi nói em là khăn quàng đỏ”; chúng ta đều đã viết “tôi đỡ một cụ già đi qua đường, tôi nhìn lên mặt trời, mặt trời càng tươi đẹp biết bao”; “sau khi quét dọn xong phòng học,  tôi lau mồ hôi và cười, tôi nhìn khăn quàng đỏ của tôi càng tươi màu hơn.” Tôi là nhảy ra từ trong đó. Sau khi tôi nói những lời nói dóc, tôi ý thức được tội ác của những lời nói dóc đó. Ngày nay cái gì cũng không thiếu, chỉ thiếu chân thực ! Thời kỳ Đại nhảy vọt năm 1958, ở An Huy có một người sắp chết, đến bệnh viện khám, bác sĩ sau khi bắt mạch khám cho ông ta nói, ông thiếu một vị thuốc, chỉ hai từ : Lương thực. Đói ! Hôm nay chúng ta đang thiếu một vị thuốc, Chân thực ! Trong một xã hội thành thực, kỳ thực thành thực không phải được người ta coi trọng như thế; chỉ có trong xã hội không thành thực, thành thực mới hiện rõ là vàng quí đặc biệt. Người nói lời nói thực thường thường là người phê bình, người phê bình thường thường là người yêu nước. Người phê bình vĩ đại thường thường là người yêu nước vĩ đại. Sau cải cách mở cửa, chúng ta đã quay một bộ phim, tên là “Huyết chiến Đài nhi trang”. Bộ phim này quay xong, không một địa phương nào dám chiếu, bởi vì bộ phim đã phản ánh sự thật đảng Quốc Dân kháng chiến. Cuối cùng, Tập Trọng Huân (Bố đẻ Tập Cận Bình) nói, trước hãy đưa sang Hồng Kông chiếu xem sao. Không ngờ phim đã gây rúng động to lớn ở Hồng Kông. Tưởng Kinh Quốc sau khi biết tin này, đưa phim về chiếu ở Đài Loan. Nghe nói Tưởng Kinh Quốc sau khi xem xong phim, đã nói một câu thế này : “Hóa ra đảng Cộng sản vẫn còn là thực sự cầu thị.” Bộ phim này đã trực tiếp khiến Tưởng Kinh Quốc bắt đầu để cho lính già về lại Đại lục thăm thân. Quan hệ hai bờ đã mở ra một trang mới mẻ. Các bạn xem, sức mạnh của thực sự cầu thị vĩ đại biết dường nào ! Chúng ta hãy tưởng tượng kỹ xem, người Trung Quốc hiện nay đúng là ngày càng thiếu “chân thực”, từ tin báo chí đưa lên đến ăn uống ở đi lại, đâu đâu cũng đầy rẫy giả dối, chúng ta đều không thể hoài nghi liệu còn có cái gì là còn chân thật ? Cho dù tương lai của cái xã hội này sẽ như thế nào, ít ra là ngay bây giờ, chúng ta phải đi tìm chân thực, người không có niềm tin không đứng vững được, đến thành thực mà chúng ta cũng không làm được, há chẳng rất bi nhục sao ! ? Người Trung Quốc, xã hội Trung Quốc, mỗi một người chúng ta đều cần chân thực. Người Trung Quốc chúng ta, vị thuốc mà chúng ta đang thiếu chính là vị Chân Thực.

Mười ngày sau, ngày 05/5/2016, Lưu Á Châu lại đặt ra một vấn đề, điều đáng sợ thực sự của nước Mỹ là cái gì ?
Lưu Á Châu phân tích, nước Mỹ tuy đang có đội quân lớn mạnh nhất, khoa học công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, nhưng tôi cho rằng điều này không thật đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ vào ra Trung Quốc rất tự do, nhưng đây cũng chẳng có gì đáng sợ. Điều đáng sợ của Mỹ không phải ở những thứ này.

Năm 1972, khi tôi đang học ở Đại học Vũ Hán, giờ học bài chính trị, một thầy giáo chính trị giảng : “Nước Mỹ đại diện cho nước chủ nghĩa tư bản là thối nát, suy tàn, đã là mặt trời sau núi, không còn mấy sức hơi.” Tôi, sinh viên công nông binh, toàn thân quân phục, lập tức đứng dậy phản bác : “Thưa thầy, tôi cảm thấy thầy nói không đúng. Nước Mỹ tuy không giống Trung Quốc, nhưng họ cũng không phải đến lúc tà dương, mà chính là lúc mặt trời giữa trưa.” Thầy giáo nổi giận mặt trắng ợt ra, lắp bắp nói : “Anh, cái học trò này, làm sao dám nói những lời này !” Ông ta không hỏi tôi tại sao muốn nói những lời này, mà lại dùng một từ “dám”. Tâm thái của thầy, nhìn qua thấy rõ. Tức là nước chủ nghĩa tư bản “thối nát” “suy tàn” này, nhưng trong thập kỷ 90 thế kỷ 20 lại đã lãnh đạo một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới. Sau khi tốt nghiệp đại học, vừa gặp cải cách mở cửa, tôi lại có một quan điểm : nước Mỹ là quốc gia do hàng ngàn ngàn vạn vạn những người không yêu tổ quốc mình cấu thành, nhưng họ đều rất yêu nước Mỹ. Lúc đó một số ít những người lãnh đạo, một mặt chửi Mỹ, một mặt gửi con cái sang Mỹ. Ngược nhau quá lớn !  Nói vòng vo mãi,  điều đáng sợ nước Mỹ là ở đâu ? Tôi tự cảm thấy có 3 điểm:

Thứ nhất, thể chế tinh anh của nước Mỹ, không thể xem thường. Thể chế cán bộ của họ, cơ chế cạnh tranh lựa chọn cán bộ, có thể bảo đảm chắc chắn người quyết sách là một tốp tinh anh. Cục diện của chế độ cán bộ chúng ta là, người có tư tưởng không quyết sách được, người làm quyết sách không nhất định có tư tưởng. Còn nước Mỹ là ngược lại, thể chế bảo tháp nhọn của họ, đúng là đã đẩy một loạt tinh anh lên tầng đỉnh. Vì thế, thứ nhất, họ không phạm sai lầm; thứ hại, họ ít phạm sai lầm; thứ ba, cho dù họ phạm sai lầm, họ rất nhanh sửa chữa sai lầm. Hiện nay đối với thế mạnh dân tộc mà nói, tầm quan trọng của lãnh thổ đang giảm mạnh, đã thay đổi từ chạy theo lãnh thổ thành theo đuổi quốc thế (Thế của quốc gia). Người Mỹ đều không có yêu cầu lãnh thổ đối với bất cứ quốc gia nào. Họ chẳng quan tâm mấy đến lãnh thổ, việc làm toàn bộ của họ trong thế kỷ 20 đều là tạo thế. Cái gì gọi là tạo thế ? Ngoài kinh tế lớn mạnh ra, là lòng dân ! Có được lòng dân, quốc gia có được sức qui tụ, lãnh thổ mất đi có thể về lại; không có lòng dân, đất đai anh ôm được khẳng định sẽ mất. Có được lãnh thổ quốc gia chỉ coi là một bước. Hành sự của nước Mỹ thường là xem 10 bước. Chính vì vậy, mỗi lần phát sinh sự kiện có tính toàn cầu trọng đại sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, đều đang tăng cường địa vị nước Mỹ. Nếu chúng ta bị nước Mỹ dắt mũi đi, là có thể mất hết mọi sức nặng chiến lược. Tôi nhiều lần nói, trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển sang châu Á, nhưng không có nghĩa là Mỹ không bao vây Trung Quốc. Rất nhiều người chỉ nhìn thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, tựa như rất nhiều người chỉ nhìn thấy sự cách biệt về khoa học công nghệ và trang bị vũ khí của hai bên Trung Mỹ, mà không nhìn thấy sự mất cân bằng về chiến lược lớn, nhất là về tầng diện ngoại giao so với trang bị lạc hậu càng nghiêm trọng. Ngoại giao của chúng ta đối với Mỹ, hoặc là có giải pháp không có tầm nhìn triển vọng, hoặc là có chi tiết không có toàn cục. Sau “119”, Mỹ nhanh chóng chỉ trong hai tháng lấy Apganistan, từ phía tây bao chặt Trung Quốc. Áp lực quân sự của Nhật Bản, Ấn Độ đối với chúng ta chưa hề giảm. Xem ra, chúng ta có được một số lợi ích trước mắt trong vụ “119”, nhưng những lợi ích này chi một hai năm là sẽ tiêu tan. Tôi cho rằng bao vây chiến lược đối với nước ta là một thứ khác, không phải quân sự, vượt qua quân sự. Bạn xem, mấy năm gần đây, các quốc gia xung quanh chúng ta dồn dập thay đổi chế độ xã hội, trở thành quốc gia cái gọi là “dân chủ”, Nga, Mông Cổ thay đổi rồi, Kazakstan thay đổi rồi. Lại thêm Hàn Quốc, Philippin, Indonesia trước đây. Loại uy hiếp này đối với chúng ta mà nói, càng ghê gớm hơn uy hiếp quân sự. Uy hiếp quân sự có thể chỉ là hiệu ừng ngắn hạn, còn bị quốc gia gọi là “dân chủ” uy hiếp là hiệu ứng lâu dài.

Thứ hai, chí khí lớn và khoan dung của nước Mỹ. Anh hãy so sánh châu Âu với nước Mỹ, anh sẽ phát hiện một khác biệt quan trọng : châu Âu buổi sáng sớm trên đường phố chẳng thấy người nào, còn sáng sớm ở Mỹ trên đường phố lớn cho đến từng ngõ ngách đều có rất nhiều người rèn luyện thân thể, thậm chí cả ngày như thế. Tôi có câu nói : rèn luyện sức khỏe là một thứ phẩm chất. Rèn luyện sức khỏe đại diện cho một thứ văn hóa bừng bừng đi lên. Một quốc gia có hay không có khí thế, cứ xem họ có bao nhiêu người rèn luyện sức khỏe là biết rõ. Người Mỹ có thể đem quốc kỳ làm quần lót mặc trên người. Tôi đã từng mua một quần đùi có cờ sao vạch ở Mỹ. Tôi thường mặc. Tôi mặc nó là để coi khinh nó, tức khí, là một thứ xả khí và thỏa mãn của tâm lý. Người Mỹ mặc lại là một thứ thân thiết. Bản chất khác nhau. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ của mình trên đường phố. Đới Húc (bạn của Lưu Á Châu) nói : Nếu một quốc gia đến quốc kỳ của mình đều có thể đốt, anh còn có lý do gì để thiêu đốt họ nữa?

Thứ ba, sức mạnh vĩ đại của tinh thần và đạo đức. Điều này là đáng sợ nhất. “11/9” là một vụ tai nạn. Khi tai nạn ập đến, cái sụp đổ trước tiên là cơ thể, nhưng cái đứng vững là linh hồn. Có dân tộc gặp tai nạn, cơ thể chưa đổ, linh hồn đã nộp khí giới. Trong vụ “119” phát sinh 3 sự kiện, đều có thể giúp chúng ta từ trong đó thấy được sức mạnh của người Mỹ. Thứ nhất, sau khi phần đỉnh tòa lầu thương mại quốc tế bị máy bay đụng hỏng, lửa khói bốc lên dữ dội, tình thế ngàn cân sợi tóc. Khi mọi người trên lầu thông qua lối ra (EXIT) đi xuống thoát thân, nhưng không hỗn loạn. Người đi xuống cứ xuống, đội viên cứu hỏa xông lên cứ lên. Nhường lối cho nhau, chứ không đụng nhau. Khi có phụ nữ, trẻ em, người mù, mọi người đều tự động tránh ra một lối đi, để họ đi trước. Thậm chí còn nhường lối đi cho một tiểu cẩu. Tinh thần của một dân tộc không mạnh đến một trình độ nhất định, tuyệt nhiên không sản sinh ra được hành động này. Đối mặt với cái chết, bình tĩnh như không, có lẽ không là thánh nhân cũng gần với thánh nhân rồi. Thứ hai, ngày thứ hai của “119”, thế giới biết đây là việc làm của phần tử khủng bố A-Rập. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn A-Rập bị người Mỹ phẫn nộ đập phá. Một số nhà buôn A-Rập cũng bị đánh. Trong thời khắc này, có một loạt lớn người Mỹ tự phát tổ chức lại, đến đứng canh giữ các cửa hàng, tiệm ăn cho người A-Rập, đến tuần tra canh giữ các khu nhà ở người A-Rập, ngăn cản bi kịch không phát triển thêm nữa. Đây là một thứ tinh thần như thế nào đây. Thứ ba, Chiếc máy bay khách 676 bị phá hủy ở Mỹ đó, vốn là muốn đụng phá tòa nhà trắng. Về sau hành khách và phần tử khủng bố trên máy bay đánh nhau, mới làm cho máy bay bị rơi cháy. Lúc đó họ đã biết tin tòa lầu thương mại, lầu 5 góc đã bị đụng, họ quyết định không thể không làm gì. Ngay như trong tình huống này, họ vẫn làm nên một sự việc : quyết định bỏ phiếu thông qua, có hay không chống lại những phần tử khủng bố này. Trong thời khắc quan hệ đến sống còn này, tôi đều không đưa ý chí của tôi áp đặt lên người khác. Về sau, toàn thể đồng ý, mới đánh lại bọn kẻ cướp máy bay. Cái gì gọi là dân chủ, đây là dân chủ. Ý niệm của dân chủ đã ăn sâu vào trong sinh mệnh, trong huyết dịch, trong cốt tủy của họ. Dân tộc như thế này, họ không hưng thịnh, ai hưng thịnh. Dân tộc như thế này, họ không thống trị thế giới, ai có thể thống trị thế giới. Tôi thường có suy nghĩ lạ : Vũ khí tối tân nhất, khoa học công nghệ mới nhất, lực lượng vũ trang lớn mạnh nhất thế giới, nắm trong tay những người như thế này, vẫn là quá thích hợp. Nước Mỹ, quốc gia này có rất nhiều kinh nghiệm thành công, đáng cho chúng ta học tập và lấy làm gương.

2) Một câu hỏi, người Trung Quốc không chỉ  thông minh khác thường, mà lao động cần cù cũng hết sức khác thường, nhưng tại sao lại không giàu ?
Đó là câu hỏi của Trần Tắc Giới, người Trung Quốc, tác giả một bài báo trên mạng  Wei- Xin ngày 16/5/2016. Tác giả viết, người thông minh nên là giàu có, thông minh khác thường càng nên là giàu có khác thường, như thế mới phù hợp lôgíc, đương nhiên nếu thông minh mà lười biếng, khẳng định là không thể giàu được. Nhưng người Trung Quốc không chỉ thông minh khác thường, mà lao động cần cù cũng hết sức khác thường, lại không giàu, tại làm sao? Thông minh của người Trung Quốc đều dùng vào đâu ?
Tác giả lần lượt đưa ra những chuyện cụ thể, phân tích và trả lời dần nội dung câu hỏi lớn đó.
Ở nước Mỹ, anh đến cửa hàng mua đồ, sau đó bất cứ lý do gì, đều có thể trả lại hàng. Vì thế một số người Trung Quốc, giả dụ mấy ngày sau cần đi dự buổi tiệc quan trọng, liền đi “mua” một bộ đồ, sau khi mặc đi dự tiệc xong, đem ra trả lại cửa hàng. Cửa hàng của Mỹ còn có việc rất hay : mua hàng đắt, còn được trả lại chênh lệch giá. Thế nên có một số người Trung Quốc nhân khi bình thường không giảm giá, nhưng bộ đồ có số đo, màu sắc đều khá hoàn chỉnh, mua hàng về, đợi đến lúc giảm giá mạnh, đem hóa đơn đến trả lại hàng và nhận chênh lệch giá. Những người này rất đắc chí về hành vi này của mình, lại còn đi khoe khắp nơi về sự thông minh của mình, thậm chí còn ẩm ức tại sao mọi người lại “ngu xuẩn” thế, không biết lợi dụng cái “lỗ hổng” này. Đem việc lợi dụng cái lợi của người khác coi là “thông minh”, đem cái gian xảo coi là “năng lực mạnh”, đem việc khiêu khích phe nhóm coi là “hòa giải chung sống”, đúng là loạn xị giá trị.
Rất nhiều bạn chơi cổ phiếu, khi thảo luận tiêu chuẩn chọn cố phiếu, thường bỏ qua một điều nhiều lần lãnh đạo một công ty nhấn mạnh là : tôi rất coi trọng sự thành thật của một CEO công ty, công ty không thực sự chính phái, tuyệt đối tôi không nghĩ tới. Hôm nay anh có thể luồn khe hở của pháp luật, ngày mai anh nắm được quyền rồi, anh sẽ sửa đối luật pháp, để cái phạm pháp của anh thành cái hợp pháp. Mấy năm gần đây, chúng ta thấy quá nhiều ví dụ thế này rồi. 10 năm trước tôi mang đứa con hơn 3 tuổi đi sang Mỹ du lịch, ở nhờ nhà người thân. Người thân đưa cho tôi một ghế ngồi ô tô an toàn cho trẻ nhỏ hoàn toàn mới, và nói : “ở đây qui định, trẻ nhỏ nhất định phải ngồi ghế ô tô an toàn. Ghế này đưa anh dùng, vì tôi mượn về, mong anh hết sức không làm bẩn, tôi còn trả lại cho họ.” Sau hai tuần lễ, tôi không còn lái xe, anh ta đưa một ghế an toàn không cũ nhưng không còn mới đến làm thủ tục trả lại hàng ở tiệm bán hàng. Nhân viên tiệm hàng không nói một lời, đưa toàn bộ tiền trả lại. Người thân đắc ý nói với tôi : “Cửa hàng của người Mỹ, trong vòng hai tuần lễ đều có thể dựa vào hóa đơn để trả lại hàng, cho nên chúng tôi thường đến đây “mượn đồ”. Có số người Trung Quốc thậm chí đến TV đều “mượn” về. Anh nói, người Mỹ có ngu không ? Kẽ hở to tổ bố của cơ chế trả lại hàng không có điều kiện như vậy mà bọn họ điềm nhiên không biết ! ”
Năm sau tôi đến Nhật Bản, bạn Đài Loan làm việc ở đó chiêu đãi tôi, đều lái xe đưa đón tôi. Tôi hỏi : “Tokyo đất chật người đông, có phải là rất khó đỗ xe ?” Anh ta nói :“chẳng nghiêm trọng đến thế đâu, chính phủ qui định phải có chỗ để xe mới cho phép mua xe, cho nên xe không đến nỗi nhiều như anh nghĩ.” “Ồ, như vậy anh có chỗ để xe ? nhất định đắt chết đi được, phải không ?” “Sao anh lại ngu như người Nhật Bản thế ! Trước thuê một chỗ để xe, đợi đến khi xe đã treo biển rồi, thì trả lại chỗ để xe, chẳng phải đã giải quyết xong ?” Sau mấy ngày, lại thay một bạn Nhật Bản chiêu đãi tôi bằng cách đi bộ và tàu điện ngầm. Anh ta lịch sự nói với tôi : “Tokyo nuôi xe dễ, nuôi chỗ để xe khó, cho nên đành để anh chen đi tầu điện ngầm.” Tôi liền bày cho anh ta “cách phá giải”. Không ngờ anh ta chẳng vui lên sau khi “ngộ đạo”, chỉ dửng dưng nói : “thực muốn khoét kẽ hở, kỳ thực đâu cũng có, ví như nhà mẹ tôi ở nông thôn, tôi chuyển hộ khẩu về đó rồi mua xe là được. Nhưng, trên thực tế là tôi ở Tokyo cơ mà, không có chỗ để xe lại mua xe, nhà hàng xóm bên trái bên phải tôi họ nhìn tôi thế nào ? Lái xe đi làm, tôi mặt mũi nào nhìn đồng sự ? người chính phải đều sẽ không làm chuyện đó.”
Cơ chế trả lại hàng không điều kiện của cửa hàng Mỹ với pháp qui ở đâu cũng tồn tại khe hở của Nhật Bản, đều xây dựng trên cơ sở tín nhiệm, khi tín nhiệm tan vỡ, xã hội cũng sẽ tan vỡ. Vì thế, họ có thể tha thứ chính khách làm sai việc, nhưng không cho phép chính khách nói vu vơ , nói tào lao không chuẩn. Còn chúng ta là “giả đến mức khi thật, thật cũng là giả”, mỗi người đều hư hư thực thực. Tư duy ảnh hưởng hành vi, mà hành vi của mỗi người lại có thể ảnh hưởng rộng đến phục vụ xí nghiệp, vận hành xã hội.
Tôi còn nhớ hồi đi tàu điện ngầm ở Rôme, phát hiện có máy bán vé lại không có máy soát vé. Ngay lúc đó tôi đâm nghi, cuối cùng là làm thế nào xác nhận được hành khách có mua vé hay không mua ? Nếu có rất nhiều người nhảy vé, tàu điện ngầm nhất định lỗ vốn  to? Đây là cách tư duy quen thuộc của chúng ta, đều luôn cứ nghĩ thay người khác, tự cho mình là tiểu thông minh hoặc tâm lý tham cái rẻ vụn vặt để tìm cách ứng phó. Đối với người Ytalia mà nói, chúng ta hỏi vấn đề này, mới thấy kỳ quái. Lên tàu sao lại không mua vé ? Lên tàu làm thế nào mà lại có thể không mua vé được ? Cách nghĩ của hai bên lúc đó là có khác nhau. Nếu anh thực muốn biết không mua vé là cũng có thể lên tàu hay không ? Có thể lên được, đúng là có thể vào ga lên tàu, nhưng anh khó bảo đảm chắc chắn không bị người Italia giàu ý thức chính nghĩa phát hiện, vì 80% họ sẽ đi tố cáo anh. Đến lúc đó, khoản phạt có thể là mấy lần giá vé, hơn nữa xấu mặt còn xấu tận nước ngoài, đúng là lợi bất cập hại.
Ở Newyork, có một lần tham quan một bảo tàng lớn nổi tiếng, trả tiền xong, nhân viên đứng quầy đưa cho chúng tôi mỗi người một vé vào cửa bằng kim loại nhỏ, phía trên có hai cái ghim tiện cho cài vào ve áo. Anh bạn cho biết, trong quá trình tham quan lúc nào cũng có thể đi ra, nếu muốn vào lại, vé vào không cần trả lại, có thể dựa vào vé đã có để vào. Quyết định là không muốn vào trở lại tham quan nữa, thì trả vé bỏ vào hòm kính đặt ở cửa vào. Tôi hỏi : “hình thức, màu vé vào hàng ngày có thay đổi không ?” Anh bạn trả lời : “không thay đổi” “vậy liệu có người cầm vé về nhà, sau mấy ngày lại vào không ? hoặc 10 người vào, chỉ mua 5 vé vào, trong đó có một người lại mang vé ra đưa cho người khác ?” Anh bạn cười toáng lên : “chỉ có người Trung Quốc mới nghĩ thế ! cách nghĩ của người Mỹ đơn thuần hơn nhiều, đi vào là phải mua vé vào, không vào nữa thì trả lại vé, thế thôi, về cơ bản người Mỹ tin tưởng mọi người đều là người tốt tuân thủ pháp luật, cho nên nhân viên làm việc ở cửa rất ít.” Thoáng lúc đó tôi cảm thấy rất tủi hổ, quan niệm phòng tránh nhiều hơn là làm lợi, ý nghĩ  đục khoét khe hở đều là một bộ phận của văn hóa chúng ta.
Gần đây, tôi giảng bài cho công ty chế tạo linh kiện tích hợp đường điện Đài Loan, phát hiện nhà ăn của Tích điện Đài Loan tựa như nhà máy khác của khu vườn khoa học, áp dụng mô thức bao gói bên ngoài, sạch sẽ gọn gàng sáng sủa như nhau. Điều khác nhau là, nhà ăn không có người giúp anh lấy thức ăn, muốn ăn gì tất cả đều tự làm lấy, nơi phát hoa quả dán một mẩu giấy ghi mỗi người chỉ lấy một túi ( đã rửa sạch, cắt gọt sạch). Ngay cả nơi cửa ra vào cũng có rất ít người quản, khi vào nhà ăn tự dùng thẻ thông minh của mình để quẹt thẻ, tiền ăn cuối tháng tự động khấu trừ vào tiền lương. Một vị Phó Giám đốc Điện tích Đài Loan nói với tôi : “một nhân viên vào ăn không quẹt thẻ bị bắt, lần thứ nhất cảnh cáo, lần thứ hai khai trừ.” Khi độ tín nhiệm giữa mọi người càng cao, quản lý càng ít, mọi người rất tiện lợi, giá thành tự nhiện hạ xuống, làm việc càng thoái mái. Ngược lại, mọi người nghi ngờ nhau, đề phòng nhau, bủa vây, giám sát, không chỉ hạ thấp sức sản xuất, làm việc cũng thụ động, gò bó, khó chịu. Cho nên bắt đầu từ bây giờ, cần cởi mở lòng dạ, với tấm lòng rộng rãi, thái độ tin cậy, để đối xử với mỗi bạn bè. Xây dựng tín nhiệm không dễ dàng, nhưng lại rất quan trọng ! Đường, đi đúng rồi, không sợ xa xôi. Anh không nên quá “thông minh” nữa, bạn bè sẽ nhiều lên, anh không nên quá “thông minh” nữa, hạnh phúc sẽ ngày càng đến gần anh hơn. Như vậy, Anh mới thực sự là người thông minh, phải vậy không ?

3) Ngày 13/5/2016, trên mạng xã hội lại có một bạn người Trung Quốc nêu lên câu hỏi, Bạn có nằm trong 10 hành vi trái ngược này của người Trung Quốc chúng ta không ?

(1) Chúng ta rất coi khinh “bố hờ” nhưng lại “hận bố hờ không thành thép.” Xung quanh chúng ta có không nhiều thì ít người như thế này : Công việc bố sắp xếp, nhà ở bố đã lo, đi lại có ô tô, cổ phiếu cần là có. Khi đụng phải người, nói với người bị hại “Bố tôi là Lý Thép”; khi thi vào chuyên ngành, nói với thầy giáo “bố tôi là Cục trưởng”. Chúng ta về tâm lý rất coi khinh : có bố hờ, có gì là ghê gớm, chẳng phải việc của ta ! Nhưng, quay người lại, trong lòng lại cảm thấy, tại sao mình lại không có ông bố hờ như thế ?

(2) Chúng ta chế nhạo, sau một đêm thành giàu sụ, nhưng âm thầm lại thích mua phiếu thưởng may mắn. Ở Trung Quốc hiện nay ngày càng có nhiều người sau một đêm thành giàu sụ, như ở ngoại ô Bắc Kinh có người do di dời nhà, sau một đêm thành triệu phú ông. Chúng ta thường chế nhạo họ giàu lên không chính đáng, nhưng bản thân lại muốn được may mắn như họ.

(3) Chúng ta hận quan tham, nhưng lại muốn “làm quan phát tài”.

(4) Chúng ta coi khinh “giàu thế hệ hai”, nhưng khi kết hôn lại muốn “gần đại khoản”(làm bạn với người nhiều tiền). Hiện nay, “thế hệ hai giàu có” ăn nhậu, chơi bời trác táng, ngang ngược, ai cũng ghét, nhưng ở không ít địa phương lại có những lớp học “làm thế nào để gả con cho kẻ có nhiều tiền.”

(5) Chúng ta chế diễu tác phong bất chính, nhưng khi giải quyết công việc lại nghĩ đến việc tìm “quan hệ”. “Không chạy không đưa, đứng im bất động; vừa chạy vừa đưa đề bạt trọng dụng”; “biết làm không bằng biết nói, biết nói không bằng biết chạy.” Ai cũng ghét chạy, nhưng bản thân mình, khi muốn chọn cho con một trường học tốt, muốn đưa người nhà vào bệnh viện tốt chữa bệnh, để giúp mình thắng một vụ thưa kiện, v.v… thì ý nghĩ đầu tiên trong đầu là động dụng quan hệ và tiền bạc để đánh thông mọi “khúc mắc”, và thường coi những người biết “chạy quan hệ” là “người tài năng”.

(6) Chúng ta rất ghét nhận lễ, nhưng lại mong người khác nhận lễ của mình. Ai cũng biết người đưa lễ động cơ không thuần, hy vọng thông qua đưa lễ để gây được tình cảm của lãnh đạo, lãnh đạo sẽ giúp giải quyết việc ngoài luật pháp chính sách chế độ qui định, mà theo kênh bình thường không giải quyết được. Còn đưa lễ gì, mức độ, cách đưa là cả “một nghệ thuật”, một “đường dây vô hình hữu hình đan xen” không dễ nhận biết.

(7) Chúng ta chửi mạnh “bọn buôn nhà”, nhất là “Tập đoàn buôn nhà Ôn Châu” nỏi tiếng cả nước, coi chúng là bọn giang hồ thị trường nhà đất lũng đoạn đến mức chúng “hơi sổ mũi” thị trường nhà đất cả nước run lên 3 ngày chưa dứt. Nhưng khi chúng ta có được ít tiền lại muốn rủ bạn bè góp vốn đi buôn nhà đất.

(8) Chúng ta rất ghét sùng ngoại, nhưng lại thích dùng hàng hiệu ngoại, ăn mặc, sử dụng hàng hiệu ngoại mới cảm thấy mình cao sang, tiến cùng thời đại.

(9) Chúng ta rất căm “qui tắc ngầm”, nhưng lại hy vọng mình là người thủ lợi của “qui tắc ngầm”.

(10) Chúng ta phê phán giá trị quan không tốt, nhưng lại không phải là người thực tiễn giá trị quan. Như chúng ta phê phán tham ô, lãng phí, mê tín phong kiến, sùng bái đồng tiền, vô cảm, v.v… Nhưng khi chúng ta rơi vào tình thế cụ thể của vấn đề, lại chẳng thực hiện được như lời chúng ta phê phán.

Trên đây giới thiệu một số ý kiến, sự kiện trong vô vàn ý kiến, sự kiện cụ thể về thực trạng xã hội Trung Quốc hiện nay. Những ý kiến, sự kiện  này cũng đủ thể hiện sinh động bức tranh dạng văn hóa của “mèo trắng hay mèo đen, miễn là bắt được chuột”. Tức là bất chấp luật lệ, đạo lý, bất chấp lợi hại của người khác, tộc họ khác, phe nhóm khác, địa phương khác, đất nước khác, dân tộc khác, thậm chí thệ hệ sau khác, miễn là bản thân mình, gia tộc mình, phe nhóm mình, địa phương mình, đất nước mình, dân tộc mình, thế hệ mình, nhiệm kỳ mình có lợi thủ lợi là làm. Phải chăng đây là hình mẫu của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là hình ảnh thành quả của đảng Cộng sản cầm quyền “vĩ quang chính” mà dân Trung Quốc nói gọn lại (Vĩ là vĩ đại, Quang là quang vinh, Chính là chính xã, đúng đắn) mà chúng ta đã và đang dốc lòng ca ngợi ngưỡng mộ ! ! !.

Trong các ý kiến trên đều có kèm theo những hình ảnh, sự kiện sinh động về thực trạng xã hội của xã hội chủ nghĩa tư bản ở cả châu Mỹ, châu Âu, châu Á, và cả dân tộc Trung Hoa ở Đài Loan, có thể đại diện cho bức tranh dạng văn hóa tư bản chủ nghĩa “thối nát, rẫy chết” mà chúng ta đã từng và đang từng phê phán.
Theo vanhoanghean